Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2017

Những Đường Nét Hoa Văn Đáng Chú Ý Trên Đồ Gốm Hòn Cau ( Phần 2)

Có một cuộc khai quật khảo cổ học dưới nước diễn ra từ năm 1990 đến năm 1991, chở hàng chục ngàn đồ vật quý giá từ chiếc tàu chìm cách đây hơn 300 năm gần đảo Hòn Cau, thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, những nhà trục vớt đã tiến hành trục vớt con tàu gần 2 năm và đã kiếm được khoảng 66.000 những món đồ cổ có giá trị cao giúp nhà nước thu về hàng triệu đô la. Trong những món cổ vật thu được trong đó có bộ gốm sứ đời Ung Chính, Nhà Thanh, Trung Hoa… Những món đồ gốm cổ Hòn Cau đã cho ta một phần nào thấy được những nét văn hóa trong cuộc sống hằng ngày của người Việt xưa thông qua những nét hoa văn đặc sắc

Ảnh 1. Đồ men gốm sứ thời Khang Hy 

Bên cạnh những hoạ tiết mang phong cách truyền thống như trên, khá nhiều hiện vật choé, bình hoa vẽ theo phong cách Châu Âu như trên nắp choé vẽ người trên bình hoa vẽ phong cảnh nhà cửa, trên thân chóe vẽ nàng tiên cá kéo vĩ cầm. Có hiện vật lại mang hoạ tiết pha trộn giữa Đông và Tây. Đây là thời kỳ mà người Châu Âu cùng với nền văn minh của mình bắt đầu du nhập vào Trung Hoa, sự giao thương buôn bán giữa người Trung Hoa và người Châu Âu bắt đầu thịnh hành mà nguồn gốc đầu tiên là từ công ty Đông Ấn của Anh, các nước như Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Thụy Điển, Hà Lan đều có chi điếm tại Quảng Đông. Các lò gốm sứ tại Cảnh Đức Trấn được đặt hàng hoặc làm theo đơn đặt hàng cho các nhà buôn phương Tây, vì vậy các nghệ nhân Trung Hoa đã phần nào chịu ảnh hưởng của phong cách Châu Âu. Đây là những hiện vật mang đầy dấu ấn của lịch sử, rõ ràng hoạ tiết đã thể hiện dấu ấn thời đại.

Khác với hoạ tiết trên chóe, bình, lọ, họa tiết trên ống cắm bút lại mang một phong cách khác. Chủ yếu là vẽ hoa dây leo, hoa cúc, tiêu diệp lan (lá chuối) …Vẽ dây hoa theo chiều ống bút, vẽ lá chuối theo hàng sắp khít nhau khi vẽ đầu lá trên khi ngược lại. Nét vẽ các dây hoa mềm mại tự nhiên, không khiên cưỡng. Đặc biệt sống động nhất là họa tiết bé trai ở trần truồng tay cầm cành hoa cao hơn thân mình đang nhảy múa với nét mặt rạng ngời niềm lạc quan, yêu đời. Hình ảnh này ta cũng bắt gặp trong tranh dân gian của người Hoa. Có lẽ nghệ nhân muốn thể hiện tính cách của người Trung  Hoa qua hình ảnh em bé trai.

Đối với những bình hoa, họa tiết thường vẽ theo lối liên hoàn, có loại vẽ trơn, có loại chia lớp, thỉnh thoảng có hiện vật chia ô để vẽ. Trang trí bình hoa chủ yếu là hoa phù dung, hoa hồng, hoa mẫu đơn …Đối với các loại ấm chuyên họa tiết thường là cảnh tứ thời, hoa lá, chim sẻ, cò, có một vài hiện vật vẽ cảnh làng quê hay tích Tô Vũ chăn dê.

Ảnh 2. Những món cổ vật được tìm thấy trong đợt trục vớt tại Hòn Cau 

Nhìn chung, dù vẽ họa tiết nào cũng thể hiện được sự hài hoà cân đối, đẹp mắt. Tất cả hiện vật đều vẽ thủ công bằng tay, mỗi nghệ nhân đều vẽ theo một phong cách riêng. Cùng họa tiết nhưng không hoàn toàn giống nhau (như hai người sinh đôi nhưng không phải là một), càng chú ý kỹ ta càng thấy sự khác biệt của họa tiết trên các hiện vật. Cùng vẽ hoa cúc nhưng bình này khác bình kia, cùng họa tiết hoa hồng, nhưng  ở mỗi hiện vật lại có nét khác nhau.Chính vì vậy, đứng ở phương diện họa tiết có thể nói mỗi hiện vật là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, có một sự hiện hữu riêng góp phần làm nên giá trị của hiện vật.

Gốm sứ thời Khang Hy thường dùng bút pháp tả chân với lối vẽ công bút, tỷ mỷ, trau chuốt, các chi tiết trang trí sống động, sát thực tế, nét vẽ sắc sảo, màu sắc không bị nhòe. Dù trải qua hơn 300 năm ở dưới  đáy biển, với tác dụng của nước mặn và thời gian mà vẫn giữ được tươi nguyên màu men xanh lam và họa tiết sống động đầy tính nghệ thuật.

Nghiên cứu họa tiết trên gốm sứ Hòn Cau, cho ta hiểu sâu hơn trình độ kỹ nghệ làm  gốm sứ, tính ngưỡng – tôn giáo, tư tưởng triết học, thế giới quan, trình độ và quan điểm nghệ thuật của thời đại Khang Hy. Hơn thế nữa, những cổ vật được trục vớt tại Hòn Cau, ngoài những đồ gốm men trắng thời Khang Hy, ta còn thu được vô số những món đồ gốm có giá trị khác nhau, những món đồ gốm đó thực tế hầu như là được nhập khẩu từ Châu Âu cho nên ta có thể thấy từ màu sắc những kiểu dáng, hoa văn họa tiết độc đáo, tinh tế và sắc nét


NHỮNG ĐƯỜNG NÉT HOA VĂN ĐÁNG CHÚ Ý TRÊN ĐỒ GỐM HÒN CAU ( PHẦN 1)

Câu chuyện về con tàu đắm  tại Hòn Cau trong một lần trên con đường chuyển hàng từ Trung Quốc đến các nước khác theo tuyến đường từ Vũng Tàu. Một thời gian rất lâu về sau, các nhà khai quật đã phát hiện và tiến hành trục vớt và  khai quật con tàu, sau một thời gian gần 2 năm trục vớt, họ đã tìm thấy được rất nhiều những đồ cổ có giá trị cao. Điều đặc biệt nhất ở đây đó là những món đồ gốm Hòn Cau đã nằm dưới đáy biển suốt mấy trăm năm nhưng vẫn giữ được chất lượng của men, những nét trang trí vẫn còn thấy rõ cho thấy sự tiến bộ thịnh vịnh của đồ gốm thời cổ xưa. Ở bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu vì sao những món đồ gốm cổ xưa có thể nằm dưới đáy biển một thời gian quá dài quá lâu tận gần 300 năm như vậy mà có thể vẫn giữ được màu gốm, cũng như họa tiết gốm và men gốm cho đến ngày nay.

Ảnh 1. Hoa văn trên gốm Hòn Cau 


Đối với người Trung Hoa, mỗi thời đại có một mô tuýp họa tiết  khác nhau. Hoạ tiết thể hiện quan niệm nghệ thuật của thời đại và tín ngưỡng tôn giáo của người  đương thời. Hay nói cách khác, tâm lý tư tưởng của thời đại chi phối hoạ tiết. Cách diễn tả theo chủ đề, cách vẽ, tô điểm, pha màu, cách thi vị hóa…đều diễn tả tư tưởng phong phú, thâm trầm và đầy chất triết học của người Trung Hoa. Vì vậy, nghiên cứu hoạ tiết trên cổ vật Hòn Cau giúp ta  khám phá ra niên đại của món cổ vật, giúp ta hiểu thêm quan điểm nghệ thuật, kỹ thuật và nhân sinh quan của thời đại đó.

Để có được kết luận đây là những cổ vật thời Khang Hy, các nhà chuyên môn đã nghiên cứu các ký hiệu niên đại trên thỏi mục, trên đồng tiền, trên hoạ tiết và nhiều cách khác nữa. Vậy tại sao đồ gố sứ Hòn Cau (1690) lại không ghi niên đại như các hiện vật trước và sau nó. Theo  nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển: “Vua Khang Hy khi về già trở nên khó tính, năm Đinh tỵ (1677) người ra lệnh cấm đề niên hiệu vua dưới đáy từ khí, vì sợ những món sứ bể rơi xuống đất thứ dân phạm tội chà đạp lên thánh hiệu” (Khảo về đồ sứ Trung Hoa, Tr.162). Vì vậy, những đồ sứ sản xuất sau năm 1677 của thời Khang Hy hầu như không thấy ghi niên đại và cổ vật Hòn Cau là một trong những số đó.

Nếu như các hiện vật khác thuộc các thời Vạn Lịch, Ung Chính, Càn Long thường ghi: “Đại Minh Vạn Lịch niên chế” (1573); “Đại Thanh Ung chánh niên chế” (1723), “Càn Long Vạn Lịch niên chế”…thì trên cổ vật Hòn Cau thuộc thời Khang Hy ta thường bắt gặp những dấu hiệu mà các lò sứ quy định để nhìn vào biết sản phẩm của mình, đó là những dấu hiệu như: con dơi, chữ thọ, hai con cá, bút, khánh, hai vòng tròn đồng tâm bên trong có các hình như: lá dâu, nấm linh chi, bình ngọc, miếng chả, khánh, lọng, loa ốc, hoa sen, kiếm, sách…Nhìn chung đó là các dấu hiệu  thể hiện tín ngưỡng tôn giáo của người Hoa đương thời. Trên đồ sứ Hòn Cau ta thường bắt gặp các bát bửu trong tam giáo, cụ thể như sau:

–  Bát bửu của Phật giáo: bánh xe (luân), loa ốc tàn trướng (lọng), hoa sen, bảo bình, song ngư, sơi dây liên hoàn (liên)

Bát bửu của Lão giáo (bát tiên) Cây gậy ăn mày của Lý Thái Quỳ, Cây Phật chủ của Hán Chung Ly, Con lừa giấy của Trương Quả Lão, Giỏ hoa lam của Hàn Tương Tử, Thư quyển ngọc (ngọc quyển) của Tào Quốc Cựu, Ông Tiên của Lữ Đồng Tân, Bảng ngọc của Lam Thái Hòa, Hoa sen của Hà Tiên Cô,hay các ký hiệu: đồng tiền, viên ngọc, miếng chả, sách, khánh, bức họa, sừng tê giác, lá cây (lá ngãi bàng) cũng được xem là bát bửu của Lão giáo.

Ảnh 2. Cổ vật được trục với từ con tàu đắm ở Hòn Cau 


Sáu dấu hiệu riêng trên đồ sành: Chữ vạn, đỉnh, cổ văn, hoa sen, thỏ ngọc, nấm linh chi. Cổ đồ bát bửu là tám món sau: bửu ngọc, miếng chả, đồng tiền, cuốn thư, cái khánh, chén tê giác, lá bối, bức họa để trong bình quý.

Các dấu hiệu thường được vẽ lên trên đáy sau hiện vật và thường nằm trong hai vòng tròn. mỗi dấu hiệu đều mang một ý nghĩa biểu trưng riêng theo quan niệm đương thời. Nếu các dấu hiệu là một trong những bát bửu của Phật giáo hay Lão giáo thì ta nhận thấy ẩn ý của quan niệm tín ngưỡng, nhưng có nhiều hiện vật mang dấu hiệu khác thể hiện ý nghĩa rất đa dạng của của cuộc sống  như: “nấm linh chi”;dấu “lá dâu”…Nấm linh chi xuất phát từ điển tích: người đời Tống tin rằng linh chi là một dược thảo quý, ăn nhiều sẽ trường thọ. Vẽ linh chi gửi tặng ai nghĩa là chúc người đó sống lâu. Dấu hiệu “lá dâu” là đánh dấu thời kỳ nghề trồng dâu nuôi tằm rất phát triển ở tỉnh Giang Tây, cũng là nơi có nhiều lò gốm sứ rất nổi tiếng như Long Tuyền, Đức Hóa. Nghệ nhân mượn hình ảnh lá dâu đề trên gốm sứ như nhắn nhủ hai đặc sản nổi tiếng của vùng quê mình là nghề làm đố sứ và nghề trồng dâu nuôi tằm. Thật vậy, gốm sứ Giang Tây được xem như là niềm tự hào của người Trung Hoa. Vào thời nhà Thanh, Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây được xem là trung tâm của nghề sứ, là nơi có hàng trăm lò gốm sứ, kéo dài đến hàng cây số.


Đến thời điểm bây giờ, những món cổ vât Hòn Cau đã được trưng bày tại các khu trưng bày và được đông đảo các du khách tham quan và ngưỡng mộ. Các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao về những món đồ gốm Hòn Cau, đặc biệt là những nét hoa văn trên đó, nó chứng minh cho ta thấy trình độ công nghệ cao lẫn kỹ thuật và mỹ thuật của các nghệ nhân làm gốm ngày xưa.

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2017

LÀNG GỐM BIÊN HÒA – NƠI QUY TỤ NHIỀU NỀN VĂN HÓA ( PHẦN 1)

Rất ít người biết rằng sản phẩm gốm sứ ở Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nổi tiếng cả trong và ngoài nước từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đến nay, các loại sản phẩm gốm ở Biên Hòa trong thời kỳ đó vẫn là những thứ rất quý giá và hiếm có đối với những ai quan tâm đến việc sưu tầm đồ gốm cổ.

Có lẽ bởi vì sự may mắn là khu vực gốm Biên Hòa có một sự hòa hợp giữa nhiều dân tộc Việt Nam với nhau nên rồi cuối cùng những cái khác nhau lại hòa quyện chung thành một nét đặc sắc chung, chính vì thế nghệ thuật làm gốm Biên Hòa mang một nét trang trí vô cùng đặc biệt, lạ lùng, đầy tính nghệ thuật đặc sắc. Ngày nay, nghề gốm nơi đây này chỉ được thực hiện tại phường Bửu Long và Tân Vân ở xã Tân Hiệp và Hòa An, nơi có khoảng 400 xưởng sản xuất nhỏ và lớn của gia đình.
 
Ảnh 1. Trang trí và tạo hình gốm Biên Hòa
Miền Đông Nam bộ được biết đến như một vùng đất mới khai hoang của các chúa Nguyễn. Năm 1679, Trần Thượng Xuyên được phép của triều đình cho định cư tại Biên Hòa, cùng người Việt di cư từ Đàng Ngoài vào lập nên Nông Nại Đại Phố. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược ở phương Nam đã chính thức lập bản đồ địa chính cho khu vực. Sự chính thức hành chính hóa của chúa Nguyễn đã công nhận một vùng đất có những đặc trưng văn hóa riêng trong nền văn hóa Việt Nam.

Dù lịch sử định cư, di trú của các tộc người ở miền Đông Nam bộ có khác nhau nhưng nguồn gốc xã hội của họ vẫn mang những điểm tương đồng: là những người nghèo cùng nhau khẩn hoang nhọc nhằn, đương đầu với thiên nhiên hoang dã, có chung nền văn hóa nông nghiệp, cùng một số phận lịch sử. Tuy có những đặc điểm tộc người riêng biệt, văn hóa, tôn giáo khác nhau nhưng do cộng cư lâu ngày trên một địa bàn chung, họ đã ít nhiều thích nghi, ảnh hưởng văn hóa của nhau và quá trình giao tiếp văn hóa ấy đã tạo nên những yếu tố văn hóa tương đối đồng nhất, mặc dù mỗi dân tộc đều giữ bản sắc văn hóa của riêng mình. Qua sự thích nghi của người dân đối với môi trường địa lý cảnh quan và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau đã thể hiện những đặc trưng tâm lý, văn hóa tộc người, hình thành nét đặc trưng của vùng văn hóa miền Đông Nam bộ.

Đông Nam bộ vào TK XVII là nơi hội tụ của nhiều nền văn hóa với đa dạng tộc người khác nhau. Thứ nhất là người Việt di cư từ miền Trung vào khai hoang, mang theo văn hóa và ngành nghề truyền thống đến. Chính họ đã thực sự là chủ thể của những sáng tác mang tính đặc trưng vùng miền cho gốm Đông Nam bộ. Thứ hai là người Minh Hương, từ Phúc Kiến, Quảng Đông (Trung Quốc) chạy trốn khỏi nhà Thanh qua Việt Nam, được Chúa Nguyễn cho định cư tại Nam bộ. Họ đưa đến những kỹ thuật và phong cách sáng tác gốm của quê hương phương Bắc. Thứ ba chính là những tộc ít người với văn hóa bản địa.

Trong một xã hội văn hóa pha trộn ấy, cả người Việt và người Hoa đều có những kỹ thuật làm gốm riêng của họ như làm đồ đất nung của người miền Trung, làm gốm có men của người Minh Hương… Tuy nhiên, sự giao thoa về văn hóa của những con người cùng sống trên một mảnh đất đã thúc đẩy nghề gốm phát triển với một nghệ thuật trang trí rất đặc trưng, mang trong mình đầy đủ thế giới quan, nhân sinh quan của xã hội thu nhỏ đó.

Trải qua thăng trầm của lịch sử, dấu ấn đời sống, văn hóa của từng thời đại đã được in hằn trên bề mặt sản phẩm gốm. Khi con người đã biết dùng nghệ thuật là công cụ để truyền tải những tâm tư tình cảm của mình, khi kỹ thuật đã cho phép họ được rộng mở hơn trong thể hiện các ý tưởng sáng tạo thì những đặc điểm của dân tộc, truyền thống cộng đồng càng trở thành yếu tố quan trọng của từng dòng sản phẩm. Nghề làm gốm thật đúng với câu: “Tất thảy những gì người ta biết hoặc làm theo truyền thống, tức là bằng một sự lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ nọ, nhờ ở lời nói hay làm mẫu”.
 
Ảnh 2. các sản phẩm trang trí độc đáo của gốm Biên Hòa
Cù Lao Phố là nơi dừng chân đầu tiên của Nguyễn Hữu Cảnh, cũng là thị cảng sầm uất vào bậc nhất phía nam ngày trước. Nơi đây đã sản sinh ra những làng gốm bên sông Đồng Nai. Trong bộ sưu tập gốm lòng sông Đồng Nai, có nhiều loại hình thuộc gốm Việt, Hoa, Chăm, niên đại tương đương với sự phát triển của Cù Lao Phố. Song những dấu tích gốm còn sót lại ở Rạch Lò Gốm (Cù Lao Phố), qua nhiều đợt nghiên cứu, điều tra, khảo sát của các nhà khảo cổ học, cho thấy có nhiều cứ liệu nhất về truyền thống gốm Đại Việt (Trung bộ) và gốm Việt gốc Hoa đã được sản xuất nơi đây. Khảo sát của Trần Anh Dũng và  Hà Văn Cẩn (Viện Khảo cổ học Việt Nam) năm 2001 đã tìm thấy dấu vết nền lò nung gốm của người Việt cùng những sản phẩm gốm nguyên vẹn như ghè đứng, bình vôi và cả mảnh bao nung sành. Chúng hoàn toàn tương ứng với kiểu lò và sản phẩm của một số khu lò gốm ở miền Trung, có niên đại ở TK XVII- XVIII. Như vậy, bộ sưu tập gốm lòng sông Đồng Nai cho thấy những người thợ gốm miền Trung đến lập nghiệp và sản xuất gốm tại Cù Lao Phố đã từ rất lâu.

Sự kết hợp của các dòng gốm quây tụ trên một vùng đã dần dần hòa nhập vào nhau, tạo thành một tổng thể phong cách, mà có lẽ chưa thấy vùng gốm nào của Việt Nam có được sự hội nhập một cách khá thuận lợi và gần như trọn vẹn như thế. Các yếu tố nghệ thuật chế tác, nghệ thuật tạo hình và trang trí sản phẩm, kỹ thuật và phong cách thể hiện, chất liệu…, đã làm nên tính đặc trưng của một dòng gốm nổi tiếng. Có rất nhiều yếu tố tạo ra những nét đặc biệt cho gốm Biên Hòa như kỹ thuật lập men và sơn men và nung. Công thức cho men rượu quyết định màu sắc của sản phẩm và nhiều trong số đó là bí mật được bảo vệ chặt chẽ của mỗi gia đình. Cách để gắn men vào sản phẩm cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất gốm. Các sản phẩm sẽ biến dạng trong khi nung nếu các thợ thủ công không thực hiện tốt kỹ thuật này. Một khi các sản phẩm được tráng men, chúng được đưa đến lò nung để nung.


Thứ Năm, 18 tháng 5, 2017

Kho Báu dưới đáy biển Cù Lao Chàm

Trong vùng biển Cù Lao Chàm ở Hội An, tỉnh Quảng Nam, 158 tàu của quân đội Nhật bị chìm bởi những chiếc máy bay của quân Đồng Minh trong Thế chiến 2, trong đó có nhiều tin đồn về năm chiếc thuyền chở các kho báu bị cướp phá khỏi khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Từ những năm 1960, nhiều người Nhật đã đến Cù Lao Chàm để tìm kho báu từ những vụ đắm tàu ​​ở Nhật. Nhiều người Việt Nam cũng đã tiến hành khai quật với ước mơ để tìm kho báu. Sau năm 1975, các nhà khoa học đã phát hiện ra rất nhiều đồ gốm thời nhà Đường từ thế kỷ thứ VII đến 10, thế kỷ VII và X và các đồ gốm của người Chăm và Hồi giáo ở Trung Đông trong Thế kỷ 9-10. Kể từ đó họ kết luận rằng hòn đảo này đã từng nằm trên tuyến thương mại từ Đông Nam Á đến Trung Đông. Có một thời mà Cù Lao Chàm là điểm đến của nhiều thương nhân cổ. Bởi vì ở biển ngoài khơi Cù Lao Chàm, các ngư dân địa phương đã tìm thấy một chiếc thuyền chìm cổ thụ đầy đồ sứ của Chu Đậu, Hải Dương. Vào đầu những năm 90, nhiều ngư dân lặn lội thu thập nhiều hiện vật cổ xưa từ tàu. Đây là thời gian trước khi cuộc khai quật khảo cổ quốc gia được thực hiện trên vụ đắm tàu ​​này. Những truyền thuyết vẫn còn nói về những kho báu bị mất trong những vùng biển này.

Ảnh 1. Những cổ vật đặc sắc được tìm thấy trong đợt khai quật 

Quá trình triển khai Dự án “Đầu tư xây dựng các sưu tập hiện vật, nâng cao năng lực nghiên cứu của Bảo tàng Lịch sử-Văn hóa”, Bảo tàng đã sưu tầm được 15 bộ sưu tập (1.100 hiện vật) có giá trị thuộc nhiều loại hình, niên đại khác nhau. Trong đó có bộ sưu tập hiện vật gốm sứ Chu Đậu (Hải Dương) thế kỷ XV.

Hiện vật do Bảo tàng Lịch sử-Văn hóa Trường ĐHKHXH & NV sưu tầm được gồm có 39 hiện vật chất liệu gốm sứ, có nguồn gốc từ tàu đắm cổ Cù Lao Chàm, được sản xuất vào khoảng thế kỷ XV ở Chu Đậu. Những hiện vật này có thể là được dân vớt lên trước lúc con tàu được các cơ quan khai quật hoặc là dân “mót”, “vét” những hiện vật còn sót lại sau khi cuộc khai quật đã tiến hành.

1. Phân loại bộ sưu tập theo loại hình
Bát miệng loe
Hiện vật có kích thước cao 8 cm, đường kính 11,2 cm. Bát miệng loe thẳng, thành vát cong, lòng sâu, chân đế trung bình, men trắng phớt xanh, phớt xám trắng trong và ngoài bát cẩn thận. Bên ngoài vẽ hoa lam hình bông cúc. Viền miệng mặt trong in hoa văn chấm tròn xung quanh.

Đĩa
Trong bộ sưu tập có 25 hiện vật gồm 2 kích cỡ, loại có kích thước khoảng đường kính mặt 36 cm và chiều cao đĩa 8cm và loại đĩa nhỏ có đường kính mặt 23cm và chiều cao 5 cm.

Hoa văn trang trí trên các đĩa gồm các đề tài như: mây cách điệu giữa trang trí cá chép đầu rồng (vẽ cá hóa long); Trang trí hình lân và nhiều chấm tròn xung quanh, lân trang trí 2 vòng tròn màu xanh lam. Miệng có gờ, gần miệng trang trí hình gương sen. Mặt ngoài trang trí cánh sen màu lam; Trang trí vẽ bông cúc và viền bông cúc. Miệng có gờ, gần gờ miệng trang trí nhiều dấu x đậm nhạt. Mặt ngoài trang trí cánh sen và hoa lá cách điệu; Trang trí bông cúc ở tâm đĩa, xung quanh vẽ đường tròn và hoa lá cách điệu, phần ngoài vẽ cánh sen; Trang trí 2 cây cỏ nhỏ ở lòng. Xung quanh trang trí hoa lá.

Chính giữa đĩa trang trí 1 cành trúc. Xung quanh trang trí 2 vòng tròn và hoa lá cách điệu. Mặt ngoài có trang trí hình cánh sen, lồng phía trong cánh sen là trang trí cách điệu chữ; Trang trí đề tài “trúc tước”; Trang trí hình “mai điểu”; Trang trí hình cá, hoa cách điệu, vân mây, trong cặp vòng tròn đồng tâm, kế tiếp là 1 vòng tròn thứ 3 và mô típ trang trí hoa lá cúc đĩa có gờ đĩa trang trí hoa dây.

Chén chân đế cao
Trong sưu tập này có 2 hiện vật kích thước cao 10cm, đường kính miệng: 8,7cm và kích thước cao15cm, đường kính miệng 10,5 cm. Thân và chân đế vẽ lam hình dây hoa lá. Lòng trang trí hoa và sóng nước, phần chân đế được tô đỏ.

Ấm Tỳ Bà
Hiện vật có kích thước cao: 22,8 cm, đường kính miệng 6.1cm, đường kính đế 7,3cm. Dáng ấm thon, miệng loe rộng, cổ eo, thân phình to, chân đế thấp, quai và vòi cao, lượn cong gắn từ phần thân và phần cổ. Hai bên thân trang trí nổi hình lá đề, trong lá đề có hình chim vẹt và dây hoa. Toàn thân còn lại vẽ lam đề tài hoa lá.

Bình Kendi
Bảo tàng đã sưu tầm được 2 bình. Trong đó một bình vẽ nhiều màu vẽ trang trí hình lân và hoa lá cách điệu. Một bình vẽ lam hình hoa lá.

Kích thước bình cao: 25,5 cm, đường kính miệng 7,2cm, đường kính đế 8,1cm. Miệng bình loe ngang, cổ eo, vai xuôi, thân phình thon, chân đế thấp. Bình vẽ lam hình hoa lá, chim chích chòe.

Hộp gốm
Bộ sưu tập này có 7 hiện vật, kích thước cao từ 4,2cm đến 4,9 cm, đường kính miệng 1,6 cm đến 2,1cm. Các hiện vật đều vẽ men xanh trắng đề tài hoa lá, chim sẻ đang bay.

Vò lọ nhỏ
Đường kính miệng 3,4 cm, chiều cao 9,4 cm.

2. Giá trị khoa học và giá trị thực tiễn

Ảnh 2. Ấm đựng rượu có kiểu dáng và hoa văn độc đáo 

Bộ sưu tập hiện vật gốm tàu đắm cổ Cù Lao Chàm là bộ sưu tập hiện vật gốc, là nguồn tư liệu phục vụ cho giảng viên, sinh viên tìm hiểu về hiện vật cuộc khai quật tàu đắm cổ Cù Lao Chàm; làm minh chứng thực tế khi phân tích, giảng giải về gốm men Việt Nam thế kỷ XV; cách phân biệt đồ cổ và đồ giả cổ và nhận dạng đặc điểm các hiện vật gốm sứ sau khi bị ngâm lâu dưới biển…

Thứ hai, bộ sưu tập hiện vật gốm tàu đắm cổ Cù Lao Chàm phục vụ công tác bảo tàng trong đó trực tiếp là xây dựng sưu tập hiện vật và trưng bày. Bộ sưu tập giúp sinh viên học tập cách phân loại hiện vật khảo cổ từ chất liệu, kiểu dáng đến hoa văn và những đặc điểm riêng, từ đó xây dựng các sưu tập hiện vật. Sau khi sưu tầm, bộ sưu tập này đã được lựa chọn và đưa 20 hiện vật trưng bày tại phòng trưng bày về Nghề và các Làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
Như chúng ta có thể thấy, các sản phẩm khai thác từ đáy biển ở Cù Lao Chàm có một giá trị tinh thần to lớn, trưng bày đồ cổ và các tập bản đồ có ý nghĩa. Đây không chỉ là điểm nhấn của chuyến du lịch Cù Lao Chàm, nó cũng rất quan trọng cho việc phổ biến rộng rãi lịch sử khoa học và lịch sử về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa cho người dân đảo đảo và khách du lịch.
Hơn nữa, việc khai trương phòng trưng bày di sản văn hoá tại Cù Lao Chàm thời gian này là một trong những bước đi đầu tiên trong chuỗi nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa cho phát triển du lịch trong thành phố. Hội An nói riêng và Quảng Nam nói chung. Theo ông Sung, công ty đang tiến hành dự án đầu tư xây dựng Bảo tàng Cảng Cù Lao Chàm ở xã đảo, dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào cuối năm 2017.


Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Gốm Gò Sành - nơi được các du khách yêu thích

Nằm gần quốc lộ kết nối thành phố Quy Nhơn và Tây Nguyên, Gò Sành là nơi được du khách yêu thích.
Người dân Phú Quảng nói rằng họ thường tìm thấy nhiều mảnh gốm bằng đất sét hoặc những chiếc bát, đĩa và cốc không bị hư hại khi họ đang đào bới xây dựng nhà cửa hoặc dọn đất để canh tác. Mặc dù họ không biết khi nào các đồ tạo tác được chôn cất, họ đoán rằng đồ gốm cổ và các sản phẩm men được sản xuất bởi người Chăm. Trong những năm 1970, gốm sứ Go Sành xuất hiện ở nhiều khu vực cổ xưa, thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu gốm sứ Việt Nam và nước ngoài. Tháng 3 năm 1974, một nhóm các nhà khảo cổ học từ thành phố Hồ Chí Minh đến làng Phú Quang để nghiên cứu. Mặc dù họ không khai quật, họ cho rằng người Chăm đã sản xuất ra sản phẩm.


Ảnh 1. Những sản phẩm gốm Gò Sành được khai quật và trưng bày 

Từ những năm đầu của thế kỷ XX, đã có nhiều cuộc tìm kiếm, thăm dò và khai quật của các học giả người Pháp tiến hành trên một phạm vi rộng lớn nghiên cứu về văn hóa Chăm. Tuy nhiên, chưa thấy một tài liệu nào đề cập đến các di tích lò nung và sản phẩm gốm cổ. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, giới nghiên cứu mới biết đến gốm Chămpa sưu tập của linh mục Mai Văn Tôn sưu tầm được quanh kinh đô Trà Kiệu (Quảng Nam). Nhưng trong sưu tập của ông, người ta cũng chỉ biết đến sản phẩm đất nung (không có sản phẩm gốm tráng men). Đến những năm 80 của thế kỷ XX, Raxana Brown - một nhà nghiên cứu gốm cổ Đông Nam Á, là người đầu tiên đề cập đến các sản phẩm gốm men của người Chăm. Trong luận án tiến sĩ của bà Gốm Đông Nam Á niên đại và giám định, địa danh Gò Sành – nơi sản xuất ra những sản phẩm ấy, mới thực sự gây được sự chú ý của giới nghiên cứu trong và ngoài nước.

Cảnh quan địa lý Gò Sành

Gò Sành là một xóm của làng Phong Đông, thôn Phụ Quang, xa Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, cách thị trấn Bình Định 7km, cách thành phố Qui Nhơn 30km về hướng tây bắc và ở vị trí 13°52’ vĩ bắc, 109°5’ kinh đông.

Gò Sành là một cồn đất cao, chạy dọc theo bờ nam sông Côn, hướng đông tây. Hiện nay, toàn bộ khu gò là đất thổ cư, ba mặt là ruộng đất canh tác. Phía bắc giáp sông Côn, phía đông giáp cánh đồng Gò Lùm, phía tây và phía nam giáp đất canh tác hoa màu. Nơi đây là một vị trí rất thuận lợi về giao thông đường thủy, một vùng giàu có về nguyên liệu đất sét, xung quanh có nhiều gò đồi, rừng núi nên nguồn dự trữ chất đốt rất lớn. Qua khảo sát, trung tâm gốm cổ Gò Sành có khoảng 20 dấu tích lò nung hiện còn.

Quá trình phát hiện và nghiên cứu

Quá trình phát hiện: Tại Gò Sành, những hiện vật như chén, đĩa, hũ, vò... được người dân địa phương phát hiện trong quá trình canh tác từ rất nhiều đời, và trong dân gian vẫn lưu truyền là đồ Hời (đồ Chàm). Do vậy, nhiều người không dám cất giữa hoặc sử dụng những đồ vật tìm thấy từ trong lòng đất Gò Sành.

Đến những năm 1970 - 1971, những chén, đĩa, hũ ấy trở thành một thứ hàng hóa có giá trị về mặt kinh tế, thì một làn sóng đào bới tìm cổ vật tại Gò Sành của người dân địa phương diễn ra nhộn nhịp. Những đồ vật được lấy lên từ lòng đất Gò Sành, đã theo chân những người buôn bán đồ cổ đi vào thị trường mua bán cổ vật lúc bấy giờ. Các nhà chức trách cũng như những người làm công tác nghiên cứu gốm cổ ở miền Nam Việt Nam và một số học giả nước ngoài bắt đầu để mắt đến dòng gốm mới phát hiện này.

Người có công báo dẫn phát hiện gốm cổ Chămpa Gò Sành là ông Nguyễn Hượt, một chủ sưu tập cổ vật tại Qui Nhơn (là bố nhà sưu tập Nguyễn Vĩnh Hảo - chủ nhân nhà trưng bày gốm Gò Sành hiện nay). Tháng 3 năm 1974, một phái đoàn của Viện Khảo cổ học Sài Gòn gồm các ông: Nguyễn Bá Lăng - Giám đốc, Đoàn Văn Xuân - Chánh sự; Nghiêm Thẩm - Quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn đã đến Gò Sành để khảo sát xác minh. Đoàn đã nghiên cứu những hiện vật được tìm thấy như bát, đĩa, cốc, chén, bình và ngói lá tại các điểm như gò Cây Quăng, gò Cây Thị, gò Cây Me, gò Cây Duối... Không tìm thấy dấu vết lò nung, nên các nhà khảo cổ đã nghi ngờ về chủ nhân của các lò gốm là người Chăm theo lời truyền miệng của người dân địa phương. Lúc bấy giờ, việc đào bới tìm cổ vật tại khu lò gốm cổ Gò Sành được các nhà chức trách sở tại nghiêm cấm. Mặt khác, cơn sốt cổ vật Gò Sành tạm lắng, không còn hấp dẫn giới buôn đồ cổ như trước đây. Do vậy, việc đào bới tìm cổ vật ở đây không còn diễn ra và gốm cổ Gò Sành lại theo thời gian đi vào quên lãng.

Hơn 10 năm sau (cuối thập niên 80), những sản phẩm gốm tìm được tại Gò Sành lại được nhắc đến. Trên cơ sở những hiện vật gốm trong bộ sưu tập gốm cổ của ông Hà Thúc Cần có nguồn gốc tại Gò Sành, Tiến sĩ Roxana Brown đã dành một chương viết về những sản phẩm gốm cổ Gò Sành.

Cuối năm 1990, trong đề tài nghiên cứu gốm cổ Việt Nam, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Tổng hợp Bình Định lập đề án khai quật nghiên cứu khu di tích này. Để có căn cứ khoa học cho việc xúc tiến khai quật chính thức, tháng 8 năm 1991, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định đã có bước điều tra khảo sát các di tích có dấu hiệu là nơi sản xuất gốm ở đây. Đồng thời, đào thám sát đã phát hiện ra một thành lò nung gốm cổ.

Tháng 8 năm 1991, Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch cấp giấy phép cho Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Tổng hợp Bình Định tiến hành khai quật. Sau 15 ngày, kết quả cuộc khai quật đã bóc tách khu lò gồm cổ đầu tiên tại Gò Sành. Do hạn chế về thời gian và kinh phí, nên phần bầu đốt của lò chưa được khai quật. Tuy nhiên, trong đợt khai quật lần này đã thu được một số lượng hiện vật phong phú về loại hình như con kê, bao  thơi, cốc, chén, đĩa, bát... và hàng chục ngàn mảnh gốm nhiều loại hình khác nhau.

Tiếp tục đề tài nghiên cứu, tháng 8 năm 1992, Viện Khảo cổ học Việt Nam và Bảo tàng Tổng hợp Bình Định khai quật một lò gốm khác trong quần thể khu di tích Gò Sành. Điểm khai quật có tục danh là gò Cây Mận. Kết quả khai quật đã phát hiện trên cùng một nền lò có nhiều lần cải tạo nền và cấu trúc lò. Trong đợt khai quật này, chỉ mới làm rõ khu lò trên và một phần bờ tường phía nam khu lò dưới.

Tháng 7 năm 1993, tiếp tục khai quật lò Cây Mận và khai quật làm rõ bầu đốt lò Cây Quăng. Lần khai quật này có sự tham gia của một số nhà khảo cổ học người Nhật. Mặc dù, qua các đợt khai quật chỉ giải quyết từng phần của các khu lò gốm, nhưng cũng chứng minh được ở Gò Sành, các khu lò gốm cơ bản đều có mẫu số chung về cấu trúc lò cũng như sản phẩm làm ra.

Tháng 3 năm 1994, di tích gò Cây Mận được Viện Khảo cổ học Việt Nam, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định cùng các nhà khảo cổ học Nhật Bản tiếp tục khai quật. Kết quả, bóc tách làm rõ từng lò một qua các lần cải tạo lò, từ sớm đến muộn.

Sau khi tư liệu khai quật lò gốm Gò Sành công bố, đã gây được sự chú ý của giới nghiên cứu trong nước và quốc tế, nhất là các nhà khảo cổ quan tâm đến gốm cổ khu vực Đông Nam Á và vùng Trung cận Đông.

Sản phẩm gốm cổ Gò Sành trong thị trường mậu dịch:

Kỹ thuật xây dựng lò và đốt lửa tại trung tâm sản xuất gốm cổ Gò Sành khá hoàn thiện, nên sản phẩm làm ra đạt đến trình độ qui chuẩn, chất lượng ngang tầm với các trung tâm gốm cổ truyền thống khác cùng thời. Sản phẩm gốm Gò Sành không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, mà còn vươn ra khỏi phạm vi quốc gia trao đổi với các vùng lãnh thổ khác.

Kết quả những cuộc khai quật ở Tây Nguyên công bố, cho biết trong một nơi cư trú của người Mạ đã tìm thấy 2.090 cổ vật gốm sứ. Trong số đó, có đến 1.650 hiện vật đã được thẩm định có nguồn gốc từ Bình Định, chủ yếu là các loại hình tô, đĩa, hũ, ché với các màu men khác nhau như xanh nhạt, vàng xám, vàng chanh, cỏ úa. Nhiều đồ gồm có dấu ấn kỹ thuật con kê, loại hình thuộc giai đoạn sớm của gốm Chăm. Sự có mặt của đồ gốm Gò Sành ở cao nguyên cho ta một nguồn tư liệu chắc chắn về sự tham gia gốm Chăm vào thị trường trao đổi nội địa.

Dòng gốm cổ Bình Định tìm thấy ở nước ngoài đã có nhiều tư liệu đề cập. Đáng chú ý là công bố của Aoyagi trong bài Đồ gốm Việt Nam đào được trên các hòn đảo Đông Nam Á. Trong bài viết này, tác giả đã công bố 32 địa điểm tìm thấy gốm cổ Bắc Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, đó là những đồ gốm cổ có nguồn từ Trung Quốc. Nhưng sau khi điền giã tại Bình Định, tận mắt nhìn thấy những sản phẩm tìm thấy trong các đợt khai quật tại Gò Sành, ông đã xem xét lại toàn bộ những nhận định trước đây. Những đồ gốm cho rằng của Bắc Việt Nam hoặc Trung Quốc trước đây đã được tác giả đính chính lại và khẳng định: nó là những sản phẩm được sản xuất tại Gò Sành Bình Định chứ không phải nơi nào khác. Trong tư liệu của Allisoni Diem được công bố “Những đồ gồm có niên đại thế kỷ XV phát hiện trong con tàu đắm tại đảo Pandanan – Philippin”, phát hiện tháng 6 năm 1993, khai quật tháng 1 và tháng 5 năm 1994, đã thu được 4.722 hiện vật nguyên và những hiện vật có thể phục chế được nguyên dạng. Trong đó, có 3.228 hiện vật không tráng men ở chính giữa để (kỹ thuật ve lòng), những đĩa sành tráng men xanh nhạt hay vàng nhạt, có thành cong và mép bẻ ra ngoài, đĩa nông lòng có mép thẳng. Những hiện vật này được xác định niên đại thế kỷ XIV – XV. Các dạng đĩa trên còn được tìm thấy ở di chỉ mộ cổ Balinao, Calagan đảo Luzon của Philippin. Theo Allisoni Diem, các đĩa này được sản xuất tại Gò Sành và các khu vực khác tại tỉnh Bình Định ngày nay. Trên con tàu đắm, còn có 75 bình khác cũng được sản xuất tại Bình Định.

Ảnh 2. Hiện vật gốm được trưng bày trong bảo tàng

Những thông tin từ con tàu đắm Pandanan đã cho ta một nguồn tư liệu đáng tin cậy về sự tham gia của các trung tâm sản xuất gốm Bình Định vào thị trường trao đổi xuất khẩu sản phẩm trong khu vực Đông Nam Á.

Ngoài khu vực Đông Nam Á, gốm Chămpa Bình Định còn có mặt ở vùng Trung Cận Đông. Các nhà khảo cổ học Nhật Bản đã phát hiện hai di chỉ khảo cổ là Altur nằm ở phía Nam đảo Sinai và bên bờ phía Tây của vịnh Suez có gốm cổ Chămpa Bình Định. Trên vùng bán đảo Ả Rập, tại thương cảng Junfa cũng tìm thấy một số mảnh gốm hoa lam và gốm đơn sắc của lò gốm Chăm Bình Định.

- Chủ nhân sản phẩm gốm Gò Sành:

Năm 1991 - 1992, sau khi khai quật lò gốm Gò Sành, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định cùng Viện Khảo cổ học Việt Nam tiếp tục khảo sát nghiên cứu các khu lò gốm khác ngoài trung tâm Gò Sành và đã phát hiện thêm 3 trung tâm sản xuất gốm khác là:

- Trường Cửu - thuộc xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn.

- Gò Hời, gò Cây Ké - thuộc xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn.

- Gò Cây Me - thuộc xã Nhơn Mỹ, huyện An Nhơn.

Tất cả 4 trung tâm sản xuất gốm cổ đều nằm phía tây thành Đồ Bàn và gần như có cùng một mẫu số chung về: kỹ thuật xây dựng lò, vị trí phân bố, cấu trúc mặt bằng, kỹ thuật nung, nguyên liệu sản xuất, tạo dáng, màu men, hoa văn trang trí...

Khi một số công bố đầu tiên về phát hiện trung tâm gốm Gò Sành trên đất Bình Định là của người Chămpa, có một vài nhà nghiên cứu còn nghi ngờ, còn có giả thuyết cho rằng của người Việt. Thế nhưng, trong Các điều ghi chú về làng gốm Bình Định của Roland và Bulteau, là tư liệu duy nhất viết về làng gốm Bình Định, tổng cộng có 17 làng, thì không có tên làng nào trùng với các địa điểm gốm cổ được phát hiện. Trong lịch sử, người Việt vào vùng đất Vijaya bắt đầu từ sau năm 1471, và tất cả những làng nghề trên mới bắt đầu hình thành và phát triển từ thời Gia Long, các loại hình sản phẩm được sản xuất tại các làng này cũng như cấu trúc lòng nung, kỹ thuật đốt lò hoàn toàn khác biệt trung tâm gốm Gò Sành. Mặc dù, gốm Gò Sành có một số nét tương đồng với kỹ thuật sản xuất gốm truyền thống của người Việt ở phía bắc như sử dụng con kê, bao nung... Nhưng sự khác biệt về kỹ thuật xây dựng lò, màu men, hoa văn giữa gốm Gò Sành và Đại Việt chứng minh hai dòng gốm hoàn toàn khác nhau của hai dân tộc Việt – Chăm.

Việc phát hiện những dòng chữ Chăm viết trên hiện vật trang trí tìm thấy ở các cuộc khai quật lò gốm Gò Sành và những hiện vật tùy táng như các tượng thờ, đồ trang sức Chăm cùng với đồ gia dụng phát hiện năm 1999, trong thành Đồ Bàn là chứng cứ tin cậy, khẳng định thêm về chủ nhân những lò gốm cổ thế kỷ XIII - XV ở Bình Định. Ngoài ra, tại khu lò gốm Cây Me còn tìm thấy 2 mảnh khuôn in với mô típ hoa văn móc xoắn mang phong cách Chăm rõ nét. Kết quả các đợt khai quật khu lò gốm Gò Sành cộng với các tư liệu con tàu đắm Pandanan có thể khẳng định rằng: chủ nhân trung tâm gốm Gò Sành cũng như Gò Cây Me, Gò Hơi, Gò Cây Ké, Trường Cửu là người Chămpa.

Trong các cuốn sách lịch sử về nền móng và sự phát triển của Bình Định, hiện vật hiện có, so sánh các mẫu thiết kế của các cuộc trưng bày và các kết quả điều tra dân tộc học, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một kết luận rõ ràng rằng người Chăm cổ xưa thực sự là chủ sở hữu Lò gốm ở Gò Sanh và các địa phương lân cận khác tại Bình Định.

Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2017

Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan trong hơn 30 năm sưu tầm đồ gốm cổ

Khi nhắc đến đồ gốm cổ, khó ai mà không nhắc đến nhà sưu tầm đồ gốm cổ tại Huế, ông Hồ Tấn Phan, ông là một người rất nổi tiếng tại vùng đất này vì ông chuyên sưu tầm những món đồ gốm cổ của dân tộc với mục đích bảo vệ văn hóa dân tộc Việt Nam truyền thống xưa. Rất nhiều người đã  tỏ lòng ngưỡng mộ sự đam mê, và nhiệt huyết của ông, bởi vì đây là một công việc khó ai có thể đảm đương được, một sở thích tuy khó khăn nhưng chất chứa biết bao những hoài bão của ông.

Trong hơn 30 năm, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan lặng lẽ và lặng lẽ theo đuổi ý tưởng thu gốm từ đáy sông Huế. Đúng là cái gì cũng có cái duyên bắt đầu của nó, chuyện là vào một ngày kia khi vợ ông đi đỡ đẻ trên dòng sông Hương. Sau khi mẹ tròn con vuông, chủ tàu không biết phải trả gì. Cô đã nhìn thấy một số chậu đất sét khá đẹp mà mọi người nhặt từ đáy sông để trả ơn. Từ đó, ông bắt đầu chú ý đến các loại đồ cổ vô giá từ sông. Ông giật mình ngẫm nghĩ về những món đồ ở dưới cùng của dòng sông Huế được lưu giữ những kho báu văn hóa vô giá. Bởi vì nhiều hơn bất cứ ai khác, ông biết rất rõ tầm quan trọng của gốm với công trình nghiên cứu lịch sử và văn hoá. Ở đâu có đồ gốm, nó xuất hiện rằng thời kỳ đồ đá mới. Gốm sứ luôn hiện diện trong nền văn minh của con người từ thời cổ đại cho đến bây giờ

Đối với các nhà nghiên cứu, đồ gốm cổ và đồ tạo tác khác trong bộ sưu tập này thực sự là một phần quan trọng của quá khứ Huế nói riêng và ở miền Trung nói chung. Nghiên cứu khảo cổ học ở khu vực miền trung không có thái độ thích hợp và khoa học đối với bộ sưu tập này thực sự là một khiếm khuyết lớn.

Rồi nặng lòng với ý tưởng muốn tập thành một bộ sưu tập đồ gốm sứ, ông len lỏi theo các con sông từ phố phường đến làng quê để tìm tòi những mảnh sành, bình vôi, lu, hũ, chén, bát, nồi, niêu thuộc nhiều chủng loại gốm đất nung, gốm men lam, gốm sành sứ đem về chất đầy nhà, đầy nương.

Ảnh 1. Những món đồ gốm từ rất xa xưa đã đều được ông sưu tầm lại 

Nhà ông bây giờ toàn là đồ gốm: gốm treo trên các song cửa sổ; gốm lăn lóc trên các ô-văng và ban công; gốm chưng trong các tủ kính, để trên những kệ sách; gốm đặt trên đầu nằm, dưới gầm giường, trên bàn, dưới ghế... tất tần tật, hễ chỗ nào trống là ông “nhét” đồ gốm vào. Ngoài vườn, đồ gốm được ông chất thành gò, xây thành đụn và bảo quản bằng lưới... B40. Bởi hơn ai hết, ông là người hiểu rất rõ tầm vóc quan trọng của chúng là kho tàng văn hóa của dân tộc. Theo ông, đồ gốm liên tục hiện diện trong đời sống văn minh văn hóa của nhân loại từ xưa đến nay. Đồ gốm đã hiện diện và tồn tại xuyên suốt lịch sử phát triển nhân loại để trở thành những trang sử chứng minh và giải mã các thông điệp của nền văn hóa mà nó sinh ra.  

Trong từng đụn đồ gốm mà ông có được như bình vôi, bình trà, lu, hũ, chén, bát, nồi, niêu... đều là gốm sứ đất nung thuộc dòng gốm sứ dân gian mang nội dung gắn liền với nhiều sinh hoạt cộng đồng, làng xã. Tùy từng kiểu dáng cũng như mục đích sử dụng, những đồ gốm dân gian có nhiều sự gắn bó với từng giai đoạn của con người từ khi sinh ra cho đến khi mất đi. Các chủng loại gốm mà ông có được đều có mặt trong các hình thái sinh hoạt quan-hôn-tang-tế của tiền nhân. Và trong hàng ngàn cổ vật gốm sứ mà ông đang sở hữu, nó bao hàm cả 3 giai đoạn phát triển của vùng đất từ sơ sử Huế đến Chăm-pa và Đại Việt.


Ông nhận định rằng: Tất cả các dòng gốm đất nung từ tiền sơ sử  Huế đến gốm Chăm-Sa Huỳnh và gốm Đại Việt-Chu Đậu, Đồng Dương... đều có ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Phật giáo. Bởi nhà chùa và dân gian có cuộc sống rất gần gũi với nhau, nhà chùa lại là chuẩn mực văn hóa để dân gian hướng đến nên những đồ dùng của dân gian thường được đem cúng vào chùa. Ông cho biết, mỗi khi ngắm nhìn những chiếc bình vôi, bình trà hay những chiếc cơi đựng trầu, những om, niêu, đèn dầu, bình hoa, quả bồng có hoa văn họa tiết hình hoa sen, chữ Vạn... ông đều hình dung ra những nét sinh hoạt thường nhật vô cùng giản dị và gần gũi của các nhà sư trong cảnh nhà tranh vách đất của dân gian.

Ảnh 2. Những chiếc lu từ xa xưa được trưng bày trước ngõ nhà ông
Những đồ gốm sứ từ thời sơ sử Huế, Chăm-pa và Đại Việt mà ông sưu tầm được đều chứa nhiều nội hàm văn hóa Phật giáo. Hơn nữa, Huế là một trung tâm văn hóa Phật giáo nên đã có ảnh hưởng rất lớn vào trong dòng gốm sứ dân gian này. Trên những đồ gốm sứ thờ tự như đèn, lư hương, chuông, mõ, bình bông, quả bồng, phù điêu, tượng... mà ông có đều mang đậm nét dấu ấn văn hóa Phật giáo.

Việc thu gom đồ gốm cổ của Hồ Tấn Phan đã tạo ra những giá trị truyền thống cốt lõi cho việc bảo vệ truyền thống của nước nhà, những nghiên cứu khoa học có giá trị đặc biệt quan trọng vì người sưu tập đã đối xử đặc biệt với mọi thứ đồ vật ông ấy thu thập được. Không có sự phân biệt giữa các vật thể "quan trọng nhất, tiêu cực nhất" theo bất kỳ tiêu chí, loại, tuổi, vật chất, nguồn gốc, tình trạng ... Trong bộ sưu tập này chúng ta thấy đồ sành sứ Bên cạnh đồ gốm bằng đất nung, đồ sứ xếp hàng với đồ gốm thô, Đồ đạc có từ hàng ngàn năm trở lại với các di vật được khoảng vài thập kỷ.


Kể chuyện về " vương quốc đỏ " tại gốm Cổ Chiên

Một vùng đất đã được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho một nguồn phù sa màu mỡ công với một khí hậu tuyệt vời để giúp Vĩnh Long được biết đến như vùng đất của những loại cây ăn trái. Bên cạnh đó, thiên nhiên có vẻ như ủng hộ vùng đất của Vĩnh Long hơn những nơi khác, bởi vì ngoài những vườn cây ăn trái, Vĩnh Long còn nổi tiếng với nhiều ngôi làng nổi tiếng, trong đó đặc biệt đề cập đến làng nghề Mỹ Hoa và làng gốm nổi tiếng của Cổ Chiên.
Dòng sông Cữu Long đỏ nặng phù sa hàng năm bồi đắp cho những cánh đồng lúa, những miệt vườn bốn mùa hoa trái bằng hàng triệu mét khói phù sa, mà những hạt phù sa đỏ ối tụ lại này còn góp phần hình thành những mỏ sét nguyên sinh quý giá. Người Vĩnh Long đã biến chúng thành những làng nghề gạch, gốm, có đến vùng đất này mới thấy hết được đôi bàn tay tài hoa của người thợ ấy.

Từ cầu Mỹ Thuận nơi sông Tiền tách ra thành dòng Cổ Chiên đến sông Mang Thít, ven sông những lò gạch, gốm mọc lên, trông xa như những lâu đài thu nhỏ rực đỏ dưới ánh mặt trời, khiến khách ghé qua ngỡ như lạc vào “Vương quốc đỏ”.
 
Ảnh 1. Gốm Cổ Chiên như một thương hiệu khi nhắc đến " Vương quốc đỏ "
Nghề làm gạch đã có mặt ở Vĩnh Long từ rất sớm và dường như câu chuyện về nghề ấy cũng đã trở thành “cổ tích”.

Làng gạch trải dài hơn 30km thuộc thành phố Vĩnh Long, huyện Long Hồ và Mang Thít. Khi nghề làm gạch thủ công truyền thống ở đây còn thịnh, mỗi nhà có đến hai, ba miệng lò. Đến mùa nung các cột khói trắng ngút trời, mang đến cuộc sống no đủ cho người dân nơi đây.

Vĩnh Long tự hào về một tài nguyên đất sét không vùng đất nào có, và làng nghề gạch lớn nhất vùng đồng bằng này mà dân gian thường gọi là Vương quốc gạch. Con người nơi đây sống với đất và sinh ra làng nghề gạch cũng vì đất, qua bao thế hệ họ đã đúc kết thành kỹ thuật nung đất tuyệt với đó là lò gạch, nhiên liệu là trấu, một sản vật quen thuộc với vùng lúa nước.

Tuy nhiên, cũng như những làng nghề thủ công truyền thống khác, qua thời gian, khi các kỹ thuật và hệ thống lò công nghệ cao được đầu tư thì các lò gạch truyền thống dần đi vào quên lãng. Hiện nay, dọc kênh Thầy Cai, Mang Thít vẫn còn hàng trăm lò gạch ngày nào san sát nhau đã rêu phong, nhìn từ trên cao trong giống như tòa lâu đài cổ trong truyện cổ tích.
Như những người con của Vĩnh Long, người dân luôn tự hào về truyền thống, văn hoá quê hương mình. Các công trình nổi tiếng của thế kỷ: Cầu Mỹ Thuận, cầu dây văng đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam, kết nối các bờ sông Tiền. Khu tưởng niệm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng thuộc huyện Long Hồ, di tích lịch sử Cái Ngang thuộc huyện Tam Bình, nhà thờ Văn Thánh tọa lạc tại thị trấn Vĩnh Long, không chỉ có Vĩnh Long còn có bờ sông nổi tiếng Làng mạc như lò rèn, lò gạch, lò nung gốm, thảm dệt, cọc lá, máy xay lúa, xây dựng thuyền, sản xuất chao, nhưng đặc biệt là nghề gốm sứ đặc biệt. Đặc biệt là những bài dân ca phổ biến và các bài hát dân gian ở quê nhà của ông.

Ảnh 2. Một khu vực tại nơi đây 

Dù là đứa con tinh thần sinh sau đẻ muộn nhưng nghề gốm ở Vĩnh Long lại có nét độc đáo riêng đó là dòng gốm không men. Không có màu đỏ ói như gạch mà gốm nơi đây có màu đặt trưng, màu của rơm rạ, đặc biệt đất Vĩnh Long chỉ kết khối ở 900 độ C. Gốm đất Vĩnh Long với màu tự nhiên đặt trưng này đã trở thành dòng sản phẩm được nhiều người ưa chuộng, kể cả khách quốc tế.
Không chỉ ấn tượng bởi màu gốm Cổ Chiên, còn có công trình kiến trúc đặc sắc là nhà gốm. Ngôi nhà được xây dựng bởi chính đôi bàn tay tài hoa của người thợ gốm, với sự đầu tư tỉ mỉ, toàn bộ ngôi nhà, từ mái, hàng rào, tường đến những vật dụng bên trong đều hoàn toàn bằng gốm. Thoạt nhìn ngôi nhà trông rất dễ vỡ nhưng lại rất chắc chắn và hòa quyện sắc màu.

Đặc biệt ở đây, độc đáo với đồ gốm không men. Không có chất nôn đỏ như gốm nơi có màu sắc đặc trưng, màu của rơm, đặc biệt là đất Vĩnh Long chỉ chặn ở 900 độ. Chậu đất Vĩnh Long với màu tự nhiên này đã trở thành dòng sản phẩm. Các sản phẩm phổ biến, bao gồm cả các sản phẩm quốc tế. Không chỉ ấn tượng bởi màu sắc gốm Cổ Chiên, còn có những tác phẩm kiến trúc nổi bật như gốm.

Ngôi nhà được xây dựng bởi bàn tay của những người thợ có tài năng, với đầu tư tỉ mỉ, toàn bộ ngôi nhà, từ mái nhà, hàng rào, bức tường đến các vật dụng trong nhà đều là đồ gốm. Thoạt nhìn ngôi nhà trông rất mong manh, nhưng rất chắc chắn và pha trộn màu sắc.


Thứ Tư, 10 tháng 5, 2017

làng gốm còn lại cuối cùng ở Sài Gòn

Nhắc đến lò gốm lâu đời cuối cùng hiện nay trên mảnh đất sài Gòn, không ai là không nghẹn ngào nhớ đến hình ảnh lò gốm của ông Năm Tiệp, lò gốm đã hình thành và phát triển cha truyền con nối đến nay đã được 40 năm kinh nghiệm làm việc. Lò gốm của ông Năm trên kênh Lò Gốm quận 8, vì sao nó được gọi là cổ và lâu đời? Vì trong những năm 70, có một ngôi làng thịnh vượng, yêu thích với cái nghề gốm này và quyết định xây dựng nên một lò gốm, nào ai ngờ cái lò gốm ấy sau bao mấy chục năm gắn bó với nghề, nghề được truyền từ đời này sang đời khác, có lúc lắm vất vả, gian truân, có thời hoàng kim phát triển thịnh vượng, nhưng dù cho có vất vả giữa cuộc sống đầy thay đổi này thì lò gốm hiện nay vẫn còn hiện hữu . Bên cạnh đó,  lò gốm còn cho ta thấy sự bình dị, chân thật và gần gũi giữa cái mảnh đất Sài Gòn ồn ào, háo nhoáng và bận rộn
 
Ảnh 1. Sản phẩm chính hiện nay ở đây là bếp lò nung
Thông qua quá trình đô thị hoá mạnh mẽ, làng Lò Gốm đã có nhiều thay đổi. Diện tích lò gốm trong khu vực này đang ngày càng thu hẹp, nguồn cung nguyên liệu sẵn có trong thành phố dần dần không còn đáp ứng nữa.

Ông Năm Tiếp bảo: “Nhờ có đứa con biết cách quảng bá thương hiệu, tìm mối nên cơ sở của tôi trụ được đến ngày hôm nay. Không thì cũng “đứt bóng” như những lò gốm khác”.

Ông Năm kể ông theo nghề từ khi mới 10 tuổi. Khi trưởng thành, gia đình để lại mảnh đất 2.000m2 để kinh doanh. Có người khuyên ông nên xây nhà cho thuê trọ hoặc bán đất gửi tiền ngân hàng mà ăn lãi. Nhưng ông quyết định dồn hết sức lực vào gầy dựng lò đất. Ông say sưa nói về quyết định của mình: “Nghề gốm giúp tôi giữ lại truyền thống của làng quê, tuổi thơ. Nó không chỉ là công việc mưu sinh mà là đam mê của tôi. Bùn đất là thứ bỏ đi nhưng biết cách sáng tạo sẽ thành một đồ vật hữu ích trong cuộc sống”.

Nói xong, ông Tiếp kéo chúng tôi tham quan lò gốm của ông. Tại đây, có trên 30 thợ đang hoạt động làm việc. Trong đó, gần 10 người đã ngoài 60, họ từng là chủ lò gốm nhưng vì hoạt động khó khăn nên họ bỏ lò chuyển sang làm thợ.

Thấy chúng tôi đang tìm hiểu về lò gốm, ông Trần Quyền (nay 68 tuổi), gạt mồ hôi, tắt máy quay lò phân trần: “Tính đến nay tôi đã trên 40 năm gắn bó với nghề. Có thời tôi làm riêng, tự mở cơ sở nhưng không tìm được đầu ra, nguồn nguyên liệu phải vận chuyển từ Long An tốn nhiều chi phí nên phải thua lỗ. Thế là bỏ nghề đi làm việc khác. Nay tuổi già, nhớ mùi đất nên quay lại làm thuê cho ông Tiếp”.

Mang chuyện về lò gốm xưa náo nhiệt, ông Quyền tâm sự: “Nhớ lại khung cảnh sầm uất mà buồn lắm. Chúng tôi có nhiệm vụ nối nghiệp cha ông mà không thực hiện được, đôi khi cảm thấy hổ thẹn. Riêng tôi, cảm phục ông Tiếp vì đã dám giữ được “hồn gốm” với bất cứ giá nào. Ổng bảo với tụi tôi, đứa nào chịu cùng ông gầy dựng lò gốm thì ông sẽ giúp đỡ hết sức khi gặp khó khăn”.

Một nghệ nhân khác cho biết trước đây đất nguyên liệu được lấy ngay tại bến Phú Định, một phần được vận chuyển từ huyện Nhà Bè để bán lại. Nay không còn đất nữa, phải thu mua tận Gò Công (Tiền Giang), Cần Đước (Long An). Địa chất mỗi nơi một khác, nên màu đất, chất lượng có phần thay đổi một ít. Sản phẩm làm ra được phân phối bán đi khắp các tỉnh ở miền Nam lẫn Tây Nguyên. Một ít được xuất sang Thái Lan, Singapore, Úc, Mỹ. Không ít du khách nước ngoài, Việt kiều mỗi khi đến Sài Gòn tìm đến lò gốm của ông để tham quan, mua sắm. Họ xem đây là một địa chỉ du lịch khám phá thú vị.
 
Ảnh 2. Những người thợ thủ công tại đây ai cũng miệt mài với công việc hằng ngày của mình 
Sản phẩm ở đây được phân chia làm 6 mẫu mã kích thước khác nhau. Giá dao động từ 30.000 – 60.000 đồng/cái. Bình quân mỗi ngày, cơ sở của ông Năm Tiếp  xuất xưởng gần 500 bếp lò. Nhưng hễ cận Tết, nhân công phải tăng ca để cho ra số sản phẩm gấp 3 lần ngày thường để dáp ứng đủ nhu cầu.
Ông Tiếp bảo với chúng tôi, sang năm ông tính chuyện xây dựng một thương hiệu hẳn hoi để có thể vực dậy nghề gốm Sài Gòn.

Làng gốm hiện nay đã gặp phải thời kỳ khủng hoảng khó khăn nhất, vì càng ngày càng ít người còn mặn mà với cái nghề làm gốm truyền thống này. Hiện nay, một trong những lò gốm lớn nhất của ông Năm cũng chỉ còn lại vỏn vẹn tâm 30 thợ thủ công luân phiên nhau làm gốm. Các sản phẩm gốm làm ra cũng chỉ tập trung vào bếp đất nung ( sản phẩm này đối với người tiêu dùng Việt Nam hiện nay đã quá cũ kỉ, chỉ còn lại một số làng quê nghèo, nhà dân còn sử dụng hoặc một số nhà hàng, quán tiệc họ mua để sử dụng). Bên cạnh đó, sự quyết tâm hừng hực khí thế của những người thủ công mới là thứ giá trị đáng quý nhất ở đây. Sáng sớm bắt đầu một ngày mới, mọi người ai nấy cũng làm việc với cả tâm huyết, không vì cuộc sống thay đổi theo hiện đại hóa mà họ nản chí với cái nghề truyền thống này, không vì những người thợ thủ công trước đã dần bỏ công việc mà họ không còn khí thế để làm  nghề. Ngược lại thay, những người thợ hiện nay còn rất là trân trọng và yêu mến cái nghề được nối truyền này của làng, họ luôn tấp nập bận rộn với công việc hằng ngày


                                                            

Bảo vệ khu di tích gốm Hưng Lợi quận 8


I – Tìm hiểu sơ nét về lò gốm Hưng Lợi
Lò gốm Hưng Lợi (khu phố 5, phường 16, quận 8) được công nhận là di tích lịch sử quốc gia. Do sự thiếu quan tâm bảo tồn, bảo tồn di tích này đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Thậm chí Trần Văn Tuấn, một nhân viên văn hoá và xã hội tại phường 16, quận 8, cũng mất phương hướng khi dẫn chúng tôi tới khu di tích này.
Năm 1999, sau khi lò gốm Hưng Lợi được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, chính quyền địa phương đã xây dựng một bức tường lưới và một cửa khẩu với dấu ấn của Khu di tích Gốm Hưng Lợi.
Tuy nhiên, ngay sau đó, dấu hiệu đã bị bỏ do tranh chấp đất đai tại khu vực. Khi chúng tôi đến, chỉ có một tàn tích. Hàng rào bị gỉ sét, cổng của các di tích, cỏ, rêu bám lên chằng chịt. Thậm chí phần quan trọng nhất của di tích là lò gốm cũng sụp đổ, chìm, biến dạng.
Ngày nay ở khu vực này còn lưu lại một số địa danh có liên quan đến nghề làm gốm như Kênh- Rạch - Bến Lò Gốm, đường Lò Siêu, đường Xóm Đất ... thuộc vùng Chợ Lớn ngày nay. Phế tích Lò Gốm là một gò cao khoảng 6m theo hướng Bắc Nam, một đầu (phía Bắc) cách kênh Ruột Ngựa khoảng 50m, đầu phía Nam có một con rạch nhỏ chảy ra kênh Lò Gốm - con rạch này cách đây khoảng 10 năm đã bị cạn, nay chỉ còn dấu vết từng đoạn rạch ngắn. Hai đầu của gò đất đã bị đào phá chỉ còn lại đoạn giữa dài khoảng 40m, chân gò rộng 30m. Cấu tạo gò chính là phần còn lại của những lò gốm với đống phế phẩm và phế liệu dày đặc hai bên sườn gò. Đợt khảo sát vào tháng 4/1997 đã cho biết đây là di tích khá lớn và khá nguyên vẹn, diện phân bố của nó lên đến 10.000m2. Chưa kể những ao nhỏ - dấu tích của việc khai thác nguyên liệu làm gốm - phân bố rải rác khắp làng Hòa Lục và cả làng Phú Định bên kia kênh Ruột Ngựa.
Đợt khai quật cuối năm 1997 và đầu năm 1998 cho biết khu lò gốm Hưng Lợi có cấu trúc khá phức tạp, do có 3 giai đoạn sản xuất gồm 3 lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau. Trên đại thể, có thể nhận thấy: cả ba lò tuy sớm muộn khác nhau nhưng đều cùng một kiểu lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau nhưng đều cùng một kiểu lò ống (lò tàu) thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Độ dốc của nền cao dần từ Bắc lên Nam, bề ngang của nền ở phía Nam hẹp hơn phía Bắc đôi chút (khoảng 5-7cm), dấu tích này đã cho biết vị trí bầu lửa của cả ba lò ở phía Bắc (là phía kênh Ruột Ngựa) và cửa thoát khói (ống khói) ở phía Nam. Cửa lò đều tìm thấy ở phía Đông, là phía phân bố chính của khu lò. Như vậy cửa ra - vào sản phẩm ở cùng một phía, và có thể ở cả cửa hậu.

Ảnh 1. Một phần của khu di tích đã dần như bị bít lối đi

Ngoài cấu trúc chính là lò nung, các lò ống còn có các đoạn tường bao gia cố vách lò, đặc biệt gia cố đoạn vách gần vách hậu, nơi chịu nhiệt độ cao nhất. Tường bao thường bằng gạch xây vách lò, hoặc gạch bịt cửa hậu bị hư hỏng. Các viên gạch xếp chồng lên nhau, hơi nghiên ôm lấy chân vách lò. Có thể kè thêm một số lu hay khạp bị hỏng, hoặc xếp lu, khạp lên trên tường gạch, hoặc xây gạch lên trên hàng lu, khạp .... Tường bao có thể có nhiều lớp, tuỳ độ lan rộng của phế phẩm lò mà người ta xây tường bao chặn lại để tạo độ vững chắc cho lò.

II. Khảo tả di tích:
Di tích là một gò đất cao khoảng 5 mét, chân gò theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Trên gò có nhiều cây hoang dại như hai cây keo già, me… chung quang gò là vùng đất trũng có nhiều ao nhỏ. Quan sát đất đắp bờ bao nhận thấy là loại đất sét xám xịt mịn.
Hiện nay phía đầu Nam bị sụp, về phía Bắc của di tích đã bị dân san phẳng làm khu nghĩa địa nhỏ. Sau khi sửa sang lại vách và nền lò ở đầu phái Bắc, di tích được mô tả như sau:
Phát quật mặt bằng phái bắc gò làm xuất lộ một phần nền lò, một phần vách lò hai phía Tây, Đông và lớp hợp chất nghi là nóc lò (?). Đào năm hố thám sát hai bên sườn gò; thu lượm và phân loại được một số sản phẩm, gồm 3 chất liệu chính: sành (lu, khạp…), gốm xốp men nâu (hộp, siêu, tay cầm, chậu, vịm…), gốm bán sứ (chén, dĩa, cốc, ly, muỗng…) một số khuôn và hiện vật kỹ thuật…. Nhận định bước đầu: cấu trúc lò là ống dài thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Nền dốc năm độ từ Bắc (phía kênh Ruột Ngựa) lên phía. Dấu tích bầu lửa đã mất do việc xây mồ mả. Ống khói phía Nam. Cửa lò có thể ở cả hai bên.

III. Các hiện vật của di tích:
Có thể kể ra một số loại sản phẩm đặc trưng của khu lò Hưng Lợi:
Đầu tiên là loại lu (chum) lớn nhất, chất liệu sành nâu, dáng thuôn vào đáy hay bầu tròn, còn được gọi là lu 3 đôi hay lu 5 đôi nước (mỗi đôi nước 40 lít). Lu được tạo hình bằng phương pháp dải cuộn, sau đó dùng bàn dập sửa sang lại cho gắn kết và vỗ cho mỏng đều. Xung quanh các vách lò có rất nhiều lu hư hỏng chứa đầy mảnh sản phẩm hoặc đất, chất thành hàng dài hay chồng lên nhau để gia cố vách lò.

Chiếm tỷ lệ lớn nhất là các loại sản phẩm gốm và sành không men hoặc có men nâu hay men vàng (men da lươn, da bò). Về loại hình, chủ yếu là "đồ bỏ bạch" như siêu, ơ (nồi có tay cầm) với nhiều kích cỡ, các loại hộp men nâu. Trên nắp ơ, đáy siêu, đáy hay nắp hộp có in nổi ba chữ Hán trong khung hình bầu dục "Hưng Lợi Diêu" (lò Hưng Lợi). Ngoài ra còn có các kiểu khạp, hũ, chậu, vịm, chậu bông ... Đặc biệt trong lò này xuất hiện loại chậu bông (tròn hay lục giác) kích thước nhỏ, in hoa văn nổi men nâu, vàng (bông mai, cúc). Thân phủ men xanh đồng hay xanh lam, màu men đặc trưng của gốm cổ Sài Gòn.

Ảnh 2. Khu di tích sắp bị lãng quên

Loại sản phẩm thứ ba là lại gốm men xanh trắng và men nhiều màu, gồm có tô, đĩa, bát, cốc. ly đèn, lư hương, ấm trà, bình rượu, thìa muôi ... Hoa văn xanh hoặc hoa văn nhiều màu (tím, đỏ, xanh lá cây, nâu, vàng), một số sản phẩm có những chữ Hán màu đen. Loại sản phẩm này không nhiều, nhưng vẫn có sản phẩm đặc trưng là tô con gà, thìa cá vàng in chìm hai chữ Hán "Kim Ngọc", cốc cao có 3 ngấn. Giai đoạn này phổ biến loại chậu kiểng lớn tạo dáng bằng khuôn in hai mang. Hoa văn in nổi là những đường hồi văn và các khung trang trí các mô típ phổ biến như Tùng Lộc, Mai Điểu, Bát Tiên ... Màu men phổ biến của chậu kiểng vẫn là xanh đồng, xanh lam, xanh lá cây ... Do sản phẩm chính là tô, bát, nên lò này còn được gọi là Lò Men (các hiện vật và hình ảnh khai quật được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử TPHCM).

Xung quanh khu di tích có nhiều ao nhỏ là dấu tích việc khai thác nguyên liệu làm gốm. Gần đây khu vực này vẫn còn một số lò gạch nhỏ. Bên kia làng Phú Định có vài gia đình làm ông lò (bếp lò) bằng đất sét đào ven kênh Ruột Ngựa trộn với tro (do trấu hun thành). Số lượng rất ít vì loại bếp lò này hiện chỉ tiêu thụ ở vùng ngoại thành hoặc ở miền Tây.
 Và hiện nay, khu lò gốm này mặc dù đã được coi là khu di tích lịch sử quốc gia nhưng đã bị xuống cấp nghiêm trọng, hiện nay đang ở giữa môi trường không sạch. Một số công trình bất hợp pháp tại khu vực này phản ánh sự quản lý và bỏ bê của cơ quan chức năng.

Cách đây không lâu, các nhà khảo cổ học và sinh viên trong và ngoài nước đến thăm di tích thường xuyên để nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu thực địa. Các nhà chức trách nói rằng rất khó để di chuyển cư dân ra khỏi một số địa điểm vì họ đã chiếm chỗ này trước khi các di tích được công nhận là di tích quốc gia hay thành phố.

Thứ Bảy, 6 tháng 5, 2017

Tìm hiểu về xóm lò gốm Sài Gòn xưa

Đã đến lúc phải thực hiện một chuyến đi ngược thời gian để tìm hiểu về thời kỳ hoàng kim của những dòng gốm đã giành được danh tiếng quốc gia và khu vực cho miền Trung Việt Nam. Nhiều làng gốm đã phát triển mạnh ở Nam Trung Bộ cách đây hàng ngàn năm, nhưng những ngôi làng nổi tiếng nhất là Mỹ Thiện ở Quảng Ngãi, Quảng Đức ở Phú Yên và Gò Sanh ở Bình Định. Các di vật bằng gốm từ các thôn bản là dấu hiệu của sự tương tác văn hoá mạnh mẽ và thương mại giữa các quốc gia trong khu vực cách đây nhiều thế kỷ.

Ảnh 1. Gốm Nam Bộ xưa

Xóm lò gốm Sài Gòn xưa. Trên bản đồ Phủ Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi địa danh “Xóm Lò gốm” – một trong những làng nghề nổi tiếng của Sài Gòn xưa. Dựa vào chỉ dẫn trên bản đồ này và từ kết quả khảo sát thực địa, thì những lò gốm bấy giờ gồm các làng Phú Giáo – Gò cây Mai, làng Phú Định – Phú Lâm, làng Hòa Lục sau đó, mà ngày nay thuộc địa phận các quận 11, quận 6, quận 8. Trên địa bàn này còn có kênh – rạch mang tên Lò Gốm và những tên liên quan đến nghề làm gốm như (đường) Lò Siêu, (đường) Xóm Đất… Tên Lò Gốm này thấy trên sách Gia Định thành thông chí (1820) “Từ năm 1772 con kênh Ruột Ngựa được đào để nối liền từ Sa Giang ra phía Bắc đến Lò Gốm”. Như vậy, khu lò gốm chắc chắn đã khởi lập trước năm này, có lẽ từ đầu thế kỷ XVIII đã có những lò gốm đầu tiên sản xuất tại vùng Sài Gòn Xưa, nay là khu vực quận 6, 8, 11 (Chợ Lớn). Dấu tích còn lại là khu vực lò gốm Cây Mai và di tích lò gốm cổ Hưng Lợi (phường 16 quận 8).
Khu lò Hưng Lợi: Sản xuất từ khoảng giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng. Giai đoạn đầu sản xuất lu chứa nước (nên còn có tên là Lò Lu), loại lớn khoảng 200 lít và loại nhỏ khoảng 120 lít (người dân còn gọi là lu 5 đôi nước và lu 3 đôi nước). Ngoài lu chứa nước, khu lò còn sản xuất loại hũ miệng nhỏ và chậu, vịm, chậu bông có nhiều kích thước. Giai đoạn 2, sản phẩm có in tên lò “Hưng Lợi diêu” gồm các loại đồ “bỏ bạch” (bên ngoài không tráng men) như: nồi có nắp và tay cầm (nồi lẩu), siêu nấu nước, gốm trắng mỏng, nắp dày. Bên trong nồi và siêu có tráng men nâu chống thấm. Các loại đồ gốm có men màu như: hộp có men nâu nhiều kích cỡ, nhiều chậu, hũ men nâu, men vàng. Chậu bông bằng sành hình tròn hoặc hình lục giác, lớn nhỏ nhiều kiểu có men nhiều màu, trang trí ô hoa văn “bát tiên” “tùng lộc” “mai điểu”… Giai đoạn 3 sản xuất các loại bát, đĩa, ấm, ly uống trà, chai, thìa, bình rượu, lư hương, thố có nắp… men trắng vẽ men lam; Có những chữ “Kim ngọc”, “Việt Lợi” trên muỗng, bình trà, ly nhỏ… có thể đó là tên tiệm bán đồ gốm đặt hàng.
Các loại lu, hũ, chậu thường nặn bằng tay theo phương pháp dải cuộn tròn kết hợp với bàn dập, không trang trí hoa văn, phủ men nâu hoặc vàng toàn thân. Các loại đồ gốm khác được làm bằng khuôn in và bàn xoay, hoa văn cũng được in từ khuôn và được chạm khắc lại cho sắc sảo, sau đó phủ hoặc tô men nhiều màu, thường là màu xanh đồng hay xanh lam, màu nâu hay đỏ. Loại sản phẩm men trắng vẽ hoa lam hoặc men màu đen (viết chữ trên men). Những sản phẩm này rất phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân Sài Gòn và cư dân Nam Bộ xưa.

Dấu tích khu lò gốm Cây Mai nằm ở sau chùa Cây Mai. Ngày xưa từ Gò Cây Mai có con rạch nhỏ, nằm trên đường Nguyễn Thị Nhỏ chảy thông ra đường Lê Quang Sung, đổ ra cầu Cây Gõ và chảy vào rạch Lò Gốm, hiện rạch này đã bị lấp. Đây là đường vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm gốm Cây Mai.

Sản phẩm khu lò gốm Cây Mai bao gồm loại đồ gốm thông dụng có kích cỡ lớn, loại sản phẩm có trang trí mỹ thuật, các loại ống dẫn nước và tượng bằng đất nung và đồ sành men màu. Lọai sản phẩm gốm độc đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai sản xuất vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là gốm men màu. Đây là loại gốm cao cấp có men màu khá phong phú như trắng, xanh lam, xanh lục, nâu, vàng gồm nhiều kiểu loại phục vụ cho sinh hoạt như tô, chén, dĩa, muỗng…Gốm trang trí như đôn, chậu kiểng; gốm thờ phụng tôn giáo như lư hương, bát nhang, bài vị, tượng thờ; gốm trang trí kiến trúc như long (rồng), voi, ngựa và các quần thể tiểu tượng.
 
Ảnh 2. Ảnh gốm tại triển lãm gốm Nam Bộ lần 3
Hiện nay, sản phẩm gốm Cây Mai còn có một khối lượng lớn quần thể tượng trang trí, tượng thờ, vật thờ bằng đất nung, gốm sành còn lưu giữ ở nhiều cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và các tư gia. Trên đồ gốm Sài Gòn còn ghi những hàng chữ như năm sản xuất và chữ điếm (tiệm), diêu (lò), như : tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên (quận 11), ở góc dưới bên phải có ghi “Đề ngạn, Nam Hưng Xương, Điếm Tố”, “Canh Thìn Trọng Đông Cát Đán Lập” (1880). Ở miếu Thiên Hậu (Quảng Triệu Hội quán – quận 1) trên quần thể tiếu tượng gốm ở phần sân miếu có những bảng gốm chữ nổi “Lương Mỹ Ngọc Điếm tạo” (tiệm Lương Mỹ Ngọc tạo), “Quang Tự Thập Tam Niên”(1887) và “Thạch Loan Mỹ Ngọc tạo” (lò Mỹ Ngọc ở Thạch Loan tạo), “Quang Tự Đinh Hợi Tuế (1887). Cũng ngay trên quần thể tiếu tượng này còn có những bảng gốm khác ghi “Đề Ngạn Bửu Nguyên Diêu tạo” (lò Bửu Nguyên ở Đề Ngạn làm), “Dân Quốc, Tân Dậu Trùng Kiến” tức trùng tu năm Tân Dậu, Trung Hoa Dân Quốc (1921). Chữ Diêu còn gặp ở một số di tích khác như ở đình Minh Hương Gia Thạnh (Quận 5), trên quần thể tiếu tượng bằng gốm có ghi “Mai Sơn, Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa – Mai Sơn tạo), “Thiên Liên, Tân Sửu Niên Lập” (1901) hoặc ở miếu Thiên Hậu (Tuệ Thành Hội quán – quận 5) trên những quần thể tiếu tượng gốm trang trí trên nóc miếu có ghi “Bửu Nguyên Diêu Tạo”, “Mậu Thân Niên Lập” (1908); “Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa tạo), “Quang Tự Mậu Thân”…
Những truyền thống gốm sứ nằm trong biên giới của Việt Nam hiện đại rất sâu sắc và đa dạng, phản ánh các di sản văn hoá nghệ thuật và sự tương tác của năm mươi bốn dân tộc trong nước này. Nhân kỷ niệm lần thứ 20 mươi năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Freer | Sackler mở triển lãm đầu tiên từ năm 2005 chỉ tập trung vào gốm sứ Việt Nam.

Hai mươi ba tác phẩm trong triển lãm này phản ánh rất nhiều hình thức và trang trí trong các tàu để nấu ăn, ăn uống, lưu trữ, vận chuyển, và nghi lễ. Gốm sứ Việt Nam đã được buôn bán trên khắp Đông Nam Á và Tây Á và Nhật Bản từ thế kỷ thứ mười bốn. Loại gốm gần đây nhất trong bộ sưu tập này là một cái lọ có màu xanh và trắng với thiết kế của hổ và tre được làm từ một thế kỷ trước gần thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) ở miền Nam Việt Nam, tại các lò nung bây giờ là một nguồn gốm sứ nổi tiếng cho thị trường Mỹ. 

Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017

Tìm hiểu lịch sử phát triển gốm Thổ Hà

Theo các trưởng lão làng, vào thế kỷ XI - XII, ba người Việt Nam được phái đến Trung Quốc làm sứ đồ của nhà vua và họ đã học được nghệ thuật gốm của Trung Quốc. Họ là Hủ Vinh Kiều từ thôn Bố Bát, tỉnh Thanh Hoá, Đào Trí Tiến, phía bắc tỉnh Hưng Yên.

Sau khi trở về Việt Nam, ba người đã dạy đồ gốm trong các làng của họ. Ông Kiều dạy người Bố Bát làm gốm bằng đất sét trắng. Làng sau đó di chuyển gần Hà Nội, và bây giờ được gọi là Bát Tràng. Tương tự, ông Tú trở về Phú Lãng; Và ông Tiến đến Thổ Hà, giảng dạy dân làng sản xuất gốm với đất sét đỏ, vàng và sẫm màu.

Vào thời điểm đó, Thổ Hà là trung tâm kinh tế về gốm sứ, có lò sưởi, thương nhân, và kinh doanh gốm sứ. Những ngày này, những người trẻ tuổi chỉ biết về sự nổi tiếng của Thổ Hà qua những bức tường, mái nhà và những ngôi nhà được làm bằng gạch vỡ. Ngày nay, không có lò nung ở Thổ Hà.

Làng gốm Thổ Hà thuộc vùng Kinh Bắc, nằm ven dòng sông Cầu. Con sông từ thuở nào đã đi vào lời ca “nước chảy lơ thơ...”. Giữa một vùng đồng bằng trù phú, nơi nhiều nghề phụ, xứ sở của quan họ, làn khói những lò gốm đã bay khoan thai tự bao đời.

Trong Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự thời Lê có viết:
Mã Đông Hồ gấm thêu hoa quyện
Cày làng Lê dựng nghiệp nông gia
Chĩnh chum thời có Thổ Hà

Theo sử sách thì gốm Thổ Hà, gốm Bát Tràng, gốm Phù Lãng đã có từ thời Lý. Làng gốm Thổ Hà xưa ở núi Gốm (Quế Dương) rồi cứ tiến dọc triền sông. Qua Vạn Yên qua làng Đặng, làng Chọi, Quả Cảm... cho đến cuối đời Trần mới dừng lại Thổ Hà giờ đây.
 
Ảnh 1. Những đồ gốm là hình ảnh quen thuộc tại Thổ Hà
Dấu vết trên đường rời quê ấy, dọc triền sông, nay người ta còn đào được nhiều mảnh sành mảnh sứ. Hẳn thời nguyên sơ, con sông Cầu còn vật vã dữ dội. Những làng xóm thuở ấy còn nhỏ bé. Cuộc sống con người còn gian nan. Thiên nhiên đầy khắc nghiệt. Để có sự bình yên như bây giờ, phải biết bao công sức của con người.

Tôi đi trong làng Thổ Hà đã bao lần, mà mỗi lần cứ nao nao xúc cảm. Những ngõ hẻm chạy dài sâu, hai bên bờ tường cao xây bằng tiểu, bằng vại nèn đất làm ngõ càng hẹp, càng hun hút hơn. Lối ngõ lát toàn mảnh sành, mảnh gốm vỡ. Một tiếng cười ở đầu ngõ cũng cứ âm vang. Mái ngói kề mái ngói ngả màu rêu. Những dãy lò đang ăn lửa. Vài chiếc lò con cóc bỏ không. Một khoảng trời xanh đất chợt ở cuối ngõ... Sự phồn thịnh ấy, tất cả đều do bàn tay con người.

Cụ Vọng, nghệ nhân xuất sắc của làng gốm nói với tôi về cái nghề gốm của làng cụ: “Đất và bàn tay mình thôi. Bao đời rồi chúng tôi nặn nồi bát ven sông...”. Phải! Thật kỳ lạ khi xem những mặt hàng gốm mà nơi đây làm ra. Từ cái vại mộc, đến cái thống men trồng hoa..., tất cả đều nặn từ đất. Người Việt mình gắn bó với bao đồ gốm, đồ sành. Từ khi ra đời cắt nhau cho vào cái nồi đất chôn ngoài cổng ngõ, rồi tắm lọt lòng trong cái chậu sành da lươn, lớn lên cầm bát cơm, cái điếu bát hút thuốc lào, cái nồi kho cá, cái vại muối cà, cái chum kê bên gốc cau hứng nước mưa... Rồi đến khi nhắm mắt nằm xuống, thay đổi hài cốt, người lại được nằm trong cái tiểu sành. Đất với người, người với đất gắn bó, thuỷ chung như thế.

Thổ Hà xưa nay không có một thửa ruộng nào. Mọi công việc đều quay quanh mấy chục cái lò gốm. Xưa toàn xây kiểu lò con cóc... chưa có lò rồng nhiều bầu như giờ. Lò rải khắp làng như những con cóc cụ ngồi chồm hỗm. Những cột khói bốc lên nghi ngút khắp làng. Nhà giàu, có nhà hai lò. Nhà nghèo chung nhau mấy nhà một lò. Nghèo nữa thì đi làm mộc, đi gánh gồng thuê. Công việc vất vả nhất là khâu làm mộc. “Hòn đất mà vật lên nồi”. Bàn tay người làm nên cả thôi. Nào quây, vần, chuốt. Đất sét sau nhiều lần đảo trộn, cầm lên tay dẻo dai như cơm nếp. Không phải đất nào cũng làm gốm được. Cuộc di quê dọc sông Cầu xưa, chắc là cũng vì một phần theo nguyên liệu đất chăng? Thổ Hà có từng đoàn thuyền đi lấy đất. Có khi đi xa ngót hai mươi cây số tận Xuân Cai, Đồng Trũng mua đất về Người trong nghề quen rồi. Cứ nhìn sắc đất biết là mẻ gốm đẹp hay thường. Hòn đất cầm vê trên tay cứ mịn, dẻo là được mua với giá cao. Nay làm ăn có tập thể, đất tìm được ngay đồng gần làng không phải đi xa nữa. Lại có dự án cứ đào sâu dưới lòng sông Cầu, sét nhiều mà tốt lắm. Làng gốm thỏa sức mà làm... 

Tôi cứ mê đi trước cảnh từng dãy nhà, các bác, các chị ngồi chân đạp bàn xoay, tay chuốt hình. Nào lọ, nào vò, nào chum, nào vại cứ hiện dần lên dưới tay người. Dưới đôi bàn tay ấy là cuộc sống bừng dậy. Ngày trước người làm gốm chỉ làm bộ, không biết rót khuôn như bây giờ. Ấy thế mà, con mắt và bàn tay thần kỳ làm sao, bao hình dáng cân đối và đều nhau như thế. Nay trong làng còn nhiều gia đình giữ lại được một số đồ cũ. Những chum, ang cao ngập đầu người. Những chiếc chậu cảnh nuôi cá rộng như cái nia. Những họa tiết, những đường riềm trên những đồ vật ấy cứ sống động, trẻ mãi. Từ khối đất sét dẻo quánh kia, người dựng hình lên thế nào. Bao đời, bàn tay con người mới kỳ diệu làm sao...

Cụ Vọng nói: “Là nghề của chúng tôi, mọi cái rồi quen cả thôi. Thật ra thì cũng khó khăn đấy. Khi làm mộc khô, đưa vào lò, hàng to thế, phải bốn năm người khênh, mà chỉ cần không đều tay một tí là vỡ, là âm ngay. Lại còn cho lửa ăn nữa. Nếu lửa già quá thì hàng bị nứt nẻ. Ăn non lửa, hàng lại rộp lên như bánh đa quạt than...”.

Ảnh 2. Cổng làng gốm Thổ Hà - Bắc Ninh 
Ngày trước trong làng chỉ có vài người biết đun lò. Những sư lò được trọng đãi lắm. Lò này gọi, lò kia gọi. Ngày đun lò là ngày nôn nóng hơn. Từng đống cỏ tranh khô cứ vơi dần. Khi nhìn qua cửa lò, chum vại đỏ rực lên như sắp cháy. Ấy là hạ lửa. Chờ vài ngày sau lửa tắt, lò nguội dần là ra lò. Vui nhất là ngày ra lò. Lò này ra, lò kia ra. Trong nhà, ngoài ngõ tất bật hẳn lên. Thuyền đỗ đầy ngoài bến chờ ăn hàng. Những chiếc chum to hai người, bốn người đòn chão khênh. Chum nhỏ một người ôm một. Có người đội lên đầu, cứ thế lênh khênh mà đi. Tiếng cười oang oang đầu ngõ. Trẻ con cũng xúm vào làm theo. Đứa xách cái vò, đứa xách cái lọ chạy luýnh quýnh. Sân chứa hàng một lúc đã đầy cả lên nào chum, nào chĩnh, nào vại, nào chậu, nào nồi. Trời ơi, nhìn những mặt hàng ăn lửa chín đều, cứ xăn xắn, gõ vào thành nghe canh canh tiếng chuông lòng ai mà yên được. Cái niềm vui rân rân dâng lên như rượu mạnh... Làng gốm ở đây cứ liên tiếp những niềm vui như thế. Sau những mùa gốm, làng xóm lại thêm bao nếp nhà ngói. Cái ngõ lát mảnh sành, mảnh sứ cài răng lược lại kéo dài thêm ra...

Anh cán bộ kỹ thuật Dong đang say mê nghiên cứu cách pha chế  men sao cho đẹp, vừa rẻ, lại vừa có sắc riêng của Thổ Hà. Trong phòng làm việc của anh đầy những vò, lọ, chậu, cốc đựng hóa chất. Học xong khoa gốm Trường Mỹ thuật Công nghiệp, anh xin về công tác ở đây. Buổi đầu tiên, sau khi đi thăm các bác, các anh thợ gốm làm việc, là anh đi vẽ bức tranh bột màu về cái cổng làng Thổ Hà. Bức tranh hiện nay anh vẫn giữ, phần là kỷ niệm, phần là ghi nhận ngày về với quê hương thứ hai của mình. Được biết anh vừa pha chế thành công một số mẫu men mới. Anh say sưa nói với chúng tôi về men nặng lửa, men nhẹ lửa. Và thật kỳ lạ, đồ làm bằng đất, lại lấy từ đất ấy làm men tráng lên, sau khi nung, hàng được tráng lớp men bóng và đẹp lạ. Anh đang băn khoăn làm sao tạo được nhiều mặt hàng đẹp, vừa mới, vừa giữ được đường nét dân tộc. Điều băn khoăn lớn của ngành thủ công là làm sao kế truyền được những tinh hoa của cha ông trước kia, kẻo mai một đi.

Làng gốm Thổ Hà, ngành nung nay đã có từng tổ nung. Những sư lò nay là những nghệ nhân già, là những thanh niên mới lớn lên. Và đặc biệt có cả con gái nữa. Câu chuyện của những sư lò mới dùng củi thay cỏ, dùng than thay củi thật vui, thật cảm động. Lớp thợ mới lớn lên trên đất quê mình. Với tinh hoa của cha ông, với trái tim mình, bàn tay người thợ gốm Thổ Hà ngày càng khéo hơn.

Người Thổ Hà giàu thời vàng đồ gốm, trong thế kỷ 15 và 16, và giờ đây họ trở nên giàu có nhờ nghề thủ công khác.

Thổ Hà còn được biết đến như là quê hương của nhiều hậu duệ của các chúa Trịnh (Trinh chúa 1545-1787 là một loạt các nhà cai trị của Việt Nam kiểm soát quyền lực của chính quyền trong khi vẫn để lại một vị vua) trong thời kỳ chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam (giữa chúa Trịnh ở phía bắc và chúa Nguyễn ở phía Nam).

Ngôi làng cũng là nơi trú ẩn cho nhiều hậu duệ của chúa Trịnh khi cuộc nổi dậy Tây Sơn tiến về phía bắc. Các di tích của chúa Trịnh vẫn được bảo tồn tại đình xã Thổ Hà, ví dụ như một cặp vẹt (động vật tượng trưng của chúa Trịnh) hoặc một cô gái vuốt ve râu rồng (coi như trinh chúa Trịnh trêu chọc Le Kings) khắc trong nhà.

Tại thôn Thổ Hà, Trịnh là một trong hai gia đình lớn nhất.

Ông Trịnh Đắc Cường, 86 tuổi, một cựu thợ thủ công gốm sứ nói rằng người Thổ Hà là người khéo léo và giỏi trong kinh doanh. Mặc dù họ không thành công trong các nghiên cứu, nhưng nó không quan trọng bởi vì người dân luôn có cuộc sống tốt đẹp.